Nếu bạn làm công việc liên quan đến lĩnh vực điện toán hay truyền thông thì có lẽ Payload là một thuật ngữ không còn quá xa lạ. Nó có một vai trò vô cùng quan trọng đối với tình hình an ninh mạng. Tuy nhiên, không phải bất cứ ai cũng biết cụ thể Payload là gì. Payload có thể tạm dịch ra là khối hàng hay tải trọng. Nhưng đối với lĩnh vực công nghệ thông tin, liệu cách hiểu này có chính xác hay không? Mời các bạn cùng Thiết kế web tại Cần Thơ tìm hiểu ngay trong nội dung bên dưới đây.
Trong truyền thông hay công nghệ máy tính, Payload là một phần dữ liệu vận chuyển của gói tin giữa hai đối tác. Nó không chứa siêu dữ liệu hay dữ liệu giao thức mà chỉ được gửi đi nhằm dùng cho việc chuyên chở Payload. Payload thường là dấu hiệu,văn bản hoặc âm thanh. Nó thường nằm dưới header và tùy theo giao thức mạng có thể có thêm trailer.
Trong an ninh máy tính, Payload là một phần của malware như virus hoặc sâu máy tính(worm). Một đoạn code được chạy trên máy dùng để thực hiện một vài hoạt động độc hại nào đó như hủy bỏ dữ liệu, mã hóa dữ liệu hay gửi spam. Thêm vào Payload, các malware có thêm overhead code để lan truyền nó hoặc để tránh bị nhận diện.
Trong lập trình máy tính, Payload được sử dụng để phân biệt giao thức overhead với những dữ liệu thực tế.
Trong điện toán, trọng tải là một khả năng mang theo của gói hay đơn vị dữ liệu truyền khác. Thuật ngữ này có bắt nguồn từ quân đội, thường được liên kết với những khả năng của một mã độc thực thi gây thiệt hại. Về mặt kỹ thuật, Payload của gói cụ thể hay đơn vị dữ liệu giao thức khác là một dữ liệu được truyền thực tế bằng cách giao tiếp những điểm cuối. Giao thức mạng chỉ định độ dài tối đa được phép cho gói Payload.
Trong ngữ cảnh của phần mềm độc hại, Payload thường được đề cập như là mã độc hại gây hại cho những nạn nhân được nhắm mục tiêu. Tải trọng phần mềm độc hại được phân phối bởi một loạt những vectơ. Bao gồm sâu máy tính, các email lừa đảo – phishing email hay các cơ chế phân phối khác. Hiện nay, những tác giả phần mềm độc hại thường hay mã hóa tải trọng để ẩn mã độc khỏi những sản phẩm chống phần mềm độc hại.
Kẻ tấn công thường sử dụng phương pháp hai pha để vượt khỏi sự phòng thủ bằng cách giữ trọng tải thực tế (phần thực sự gây nên thiệt hại cho nạn nhân) tách biệt khỏi các vectơ lây nhiễm. Theo cách này, những phương thức phân phối đã được chứng minh như email lừa đảo có thể được điều chỉnh theo thời gian để phân phối các Payload độc hại.
Hầu như bất cứ loại phần mềm độc hại nào cũng đều có thể được tích hợp vào một Payload. Thường là với sự giúp đỡ của quá trình tạo tải trọng, để có thể tạo ra phần mềm độc hại thực thi được. Những tác nhân độc hại cũng như người kiểm tra thâm nhập, sử dụng những trình tạo tải trọng để kết hợp phần mềm độc hại.
Nó có thể thực hiện được vào một tải trọng để phân phối đến nhiều mục tiêu. Những dự án Metasploit là dự án mã nguồn mở bao gồm nhiều nguồn lực cho nghiên cứu lỗ hổng bảo mật. Trong đó bao gồm duy nhất một máy phát điện tải trọng.
Trình tạo Payload chấp nhận shellcode. Thường sẽ là một chuỗi mã ngắn bắt đầu một shell lệnh có thể khai thác trên các mục tiêu. Tạo tệp nhị phân thực thi thực sự cho phép phân phối tải trọng. Sau khi được phân phối cũng như thực hiện, quy trình phân phối tải trọng sẽ cho phép lây nhiễm hệ thống được nhắm làm mục tiêu.
Tùy thuộc vào sự tồn tại của những hệ thống phát hiện phần mềm độc hại. Cơ sở của chúng trong việc phát hiện những mã độc ở dữ liệu được truyền. Các phần mềm độc hại được gửi qua email hay loại tải trọng ứng dụng sẽ lây nhiễm mục tiêu. Một Payload có thể chứa bất cứ thể loại phần mềm độc hại nào. Nó bao gồm tuyển dụng botnet, ransomware hay các loại virus, worm khác.
Một gói IP có thể chứa một tải trọng có những lệnh do người dùng cuối cấp. Chẳng hạn như việc yêu cầu về nội dung web. Thông thường hơn, nó sẽ mang trọng tải bao gồm các dữ liệu thực tế được truyền đi bởi một máy chủ để đáp ứng nhu cầu của người dùng. Giới hạn tải trọng trên PDU được chỉ định bởi thông số kỹ thuật giao thức có liên quan, kích thước tối đa của tải trọng cho PDU riêng lẻ thay đổi không quá thường xuyên.
Kích thước tối đa của tải trọng mạng có thể được xác định bằng việc trừ đi lượng dữ liệu cần thiết cho những tiêu đề giao thức từ các kích thước đơn vị truyền tối đa cho giao thức.
MTU cho những gói IP có thể được thay đổi theo mạng và hệ thống.
Tiêu chuẩn IP ban đầu (RFC 791) được chỉ định tất cả những máy chủ cần phải có thể chấp nhận những gói lớn đến 576 byte, 64 byte cho tiêu đề và tải trọng dữ liệu là 512.
MTU mặc định rằng được chấp nhận chung cho tất cả những gói IPv4 cuối cùng đã được điều chỉnh lên đến 1500 byte để tương thích với những phân đoạn Ethernet.
MTU lớn hơn hoặc nhỏ hơn cũng có thể được chỉ định cho những hệ thống riêng lẻ.
Giới hạn tải trọng giao thức mạng vô cùng quan trọng bởi vì chúng có thể ảnh hưởng đến hiệu suất của toàn giao thức. Tải trọng nhỏ hơn nghĩa là phải tạo ra càng nhiều gói hơn, truyền đi một khối lượng lớn dữ liệu. Tải trọng lớn hơn, cắt giảm nhu cầu tạo ra nhiều gói. Nhưng cũng yêu cầu phải có một môi trường mạng nhanh chóng, đáng tin cậy và có khả năng cung cấp một khối lượng lớn dữ liệu mà không bị chậm trễ do lỗi hay điều kiện mạng tạm thời.
Trong mạng Internet, Security Payload tương tự như một công cụ quan trọng nhất đối với các hacker. Sau khi chúng tìm ra lỗ hổng của hệ thống mà chúng thực thi phần mềm độc hại gọi là Malware Payload.
Những hacker sẽ phân phối với sự hỗ trợ của Phishing email và họ sẽ ràng buộc Payload với một vài ứng dụng khác.
Một vài Payload như hủy tin nhắn, dữ liệu có nội dung xúc phạm hay các email được gửi hàng loạt đến một lượng lớn người dùng.
Nguồn bài viết: Sưu tầm